Xuất khẩu lao động được xem là một thị trường tiềm năng, khi mỗi năm mang về cho đất nước trên dưới 2 tỷ USD. Hiện lao động Việt Nam được nhiều nước ưa chuộng, chẳng hạn như Nhật Bản, thế nhưng để có thể nâng cao giá trị lao động xuất khẩu, cần chuyên nghiệp hoá khâu đào tạo.
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội), trong 5 năm trở lại đây số lượng người lao động (LĐ) đi nước ngoài làm việc hàng năm là 100 nghìn người và tăng đều mỗi năm khoảng 10 nghìn người.
Số LĐ làm việc ở nước ngoài tập trung ở các thị trường có thu nhập khá cao như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) chiếm khoảng trên 90% và một số nước Đông Âu với các ngành nghề cơ khí, sản xuất, chế tạo.
Xuất khẩu lao động đem lại nguồn lực lớn cho đất nước.
Nhật Bản, trong 3 năm gần đây, đã thông qua 2 luật về tiếp nhận LĐ nước ngoài bao gồm: Luật về chương trình thực tập kỹ năng người nước ngoài (năm 2016) và Luật sửa đổi Luật Xuất nhập cảnh và tỵ nạn, trong đó cho phép tiếp nhận LĐ kỹ năng đặc định người nước ngoài làm việc tại Nhật Bản (năm 2018), đồng thời người LĐ đi theo hình thức thực tập kỹ năng hoặc LĐ kỹ năng đặc định được thực tập và làm việc với thời hạn 5 năm.
Đài Loan cũng sửa đổi chính sách cho phép người LĐ nước ngoài được tái nhập cảnh vào làm việc, cũng như kéo dài thời hạn làm việc. Mặc dù tình trạng thất nghiệp của LĐ trong nước tăng lên so với trước đây, nhưng Hàn Quốc vẫn duy trì hạn ngạch nhập LĐ nước ngoài đến làm việc, đồng thời mở ra hướng tiếp nhận LĐ đến làm việc trong lĩnh vực ngư nghiệp và nông nghiệp.
Theo các chuyên gia LĐ, tuy thị trường xuất khẩu LĐ của Việt Nam rất rộng mở, nhưng chất lượng nguồn nhân lực LĐ Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế, trong đó tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp, thiếu hụt LĐ có tay nghề cao nên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập.
Tuy các thị trường LĐ ngoài nước vẫn đang tiếp nhận LĐ giản đơn, nhưng xu hướng chung của các chủ sử dụng LĐ và quy định của các nước vẫn muốn tiếp nhận LĐ qua đào tạo, có trình độ tay nghề và chuyên môn. Hơn nữa, đối với LĐ qua đào tạo thì có nhiều ưu điểm hơn về khả năng tiếp thu công việc, năng suất chất lượng hiệu quả LĐ và ý thức tổ chức kỷ luật LĐ.
Các chuyên gia cho rằng, đã đến lúc chúng ta không chỉ dựa vào lợi thế lao động phổ thông giá rẻ, mà phải nâng cao chất lượng lao động, giá trị xuất khẩu; nâng cao hình ảnh dân tộc, thương hiệu lao động.
Theo đó, ngay từ bây giờ không ngừng nâng cao bằng mọi cách, mọi giải pháp, để có thể gửi đi đội ngũ lao động có chất lượng, đáp ứng được những thị trường khó tính; tập trung tìm những giải pháp chủ yếu hướng đến đào tạo nghề nghiệp và giáo dục các thói quen, để lao động dễ dàng thích nghi với công nghệ kỹ thuật cao, văn hóa của nước sở tại.
Cũng theo các chuyên gia, để nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu ra nước ngoài bên cạnh đòi hỏi ý thức bản thân người học còn phải có sự chung tay của các trường lẫn doanh nghiệp trong đào tạo kỹ năng nghề, làm việc theo nhóm. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động rất cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý địa phương, phối hợp với trung tâm dịch vụ việc làm, đặc biệt liên kết với các trường, cơ sở đào tạo giáo dục nghề nghiệp.
Đề xuất giải pháp thực hiện gắn kết đào tạo giáo dục nghề nghiệp với việc làm và xuất khẩu lao động (XKLĐ) trong thời gian tới, đại diện lãnh đạo Cục Quản lý LĐ ngoài nước- Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội cho rằng: Cần đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường LĐ ngoài nước và công tác tạo nguồn LĐ có chất lượng, ý thức tổ chức kỷ luật, nâng cao trình độ cho người LĐ đi làm việc tại nước ngoài.
Kết nối chương trình phối hợp giữa các trường, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và địa phương trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng, trình độ đi làm việc tại nước ngoài.
Cùng đó, cần tăng cường tổ chức các khóa tập huấn, cung cấp thông tin thị trường LĐ nước ngoài, bồi dưỡng kiến thức về lĩnh vực đưa người LĐ Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài cho cán bộ địa phương, doanh nghiệp XKLĐ đồng thời, xem xét đưa vào chương trình giảng dạy định hướng cho học sinh, sinh viên về thị trường LĐ trong và ngoài nước; trao đổi với một số nước về việc ký kết thỏa thuận hợp tác trong đào tạo nghề đạt chuẩn của các nước đó, hoặc công nhận chứng chỉ nghề được đào tạo tại các trường nghề của Việt Nam tương đương với các trường chuyên môn của nước tiếp nhận LĐ. Giới thiệu doanh nghiệp XKLĐ ký kết đặt hàng với các trường đào tạo nghề, đặc biệt là các nghề có tính chất đặc thù.
Cũng theo các chuyên gia, để nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu ra nước ngoài bên cạnh đòi hỏi ý thức bản thân người học còn phải có sự chung tay của các trường lẫn doanh nghiệp trong đào tạo kỹ năng nghề, làm việc theo nhóm.
Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động rất cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý địa phương, phối hợp với trung tâm dịch vụ việc làm, đặc biệt liên kết với các trường, cơ sở đào tạo giáo dục nghề nghiệp.
Đề xuất giải pháp thực hiện gắn kết đào tạo giáo dục nghề nghiệp với việc làm và XKLĐ trong thời gian tới, đại diện lãnh đạo Cục Quản lý LĐ ngoài nước- Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội cho rằng: Cần đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường LĐ ngoài nước và công tác tạo nguồn LĐ có chất lượng, ý thức tổ chức kỷ luật, nâng cao trình độ cho người LĐ đi làm việc tại nước ngoài.
EmoticonEmoticon